Hai bộ phận này tiếp cận với nhau dưới tác động qua lại của lực hấp dẫn. Khi tiếp cận đến một mức độ nhất định, tác dụng “đổ vỡ” do thế giới vật chất và phản vật chất sinh ra sẽ tạo ra một nguồn năng lượng vô cùng lớn, tạo thành một áp lực tách đôi hai hệ thống. Theo đó, có thể thấy rằng mất tích chính là hiện tượng phát sinh khi hai hệ thống vật chất và phản vật chất tiếp cận ở mức độ cao nhất, sinh ra năng lượng tạo nên áp lực phân tách. Khi hiện tượng “đổ vỡ” kết thúc, trường lực hấp dẫn trở lại trạng thái ban đầu, hiện tượng tái hiện xảy ra. 


Trong cuộc tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhiều giả thuyết khác cũng được đưa ra. Một trong số đó là thuyết Thời gian đứng lại. Thế giới vật chất sau khi tiến vào “lỗ hổng thời gian” đồng nghĩa với việc mất tích, và từ đó đi ra cũng có nghĩa là được tái hiện. Như vậy, “lỗ hổng thời gian” và trái đất không cùng một hệ thống, và thời gian trong “lỗ hổng” là tương đối tĩnh. Do đó dù có mất tích 3-5 hay vài chục năm đi nữa, người ta sẽ không có gì thay đổi so với lúc ban đầu. 

Giả thuyết thứ hai được đưa ra là thuyết Thời gian ngược, cho rằng thời gian trong “lỗ hổng thời gian” là quay ngược so với bình thường. Người mất tích sau khi rơi vào đó có khả năng sẽ quay ngược về quá khứ. Tuy nhiên, khi thời gian quay ngược một lần nữa, người này lại được đưa trở về thời điểm họ bị mất tích, kết quả là xảy ra hiện tượng tái hiện thần bí. 

Trong thuyết thứ ba Đóng cửa thời gian, “lỗ hổng thời gian” là hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới vật chất, không nhìn thấy và cũng không thể sờ thấy. Đối với thế giới vật chất mà con người đang tồn tại, nó vừa đóng lại vừa mở. Thỉnh thoảng khi nó mở ra một lần, kết quả là xuất hiện hiện tượng mất tích. Mở thêm một lần nữa, người mất tích tái hiện. 
Trước mắt, quanh vấn đề “lỗ hổng thời gian” vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa có một học thuyết nào có sức thuyết phục vì chưa đưa ra được những chứng cứ xác thực. Hiện tượng “mất tích – tái hiện” vẫn còn là bí ẩn đang chờ con người khám phá.
Theo Goldlight, myetang Để vào tương lai, có một cách đơn giản là chạy thật nhanh : vận tốc của bạn càng lớn, thì thời gian trôi qua càng chậm đối với bạn . Nếu bạn chạy với vận tốc ánh sáng, thì thời gian ngừng trôi ! (chỉ đối với bạn thôi)
Khi bạn dừng lại, thì thế giới đã thay đổi đi quá nhiều để có thể nhận ra rồi . Bên ngoài thế giới đã trải qua mấy trăm ngàn năm, nhưng bạn mới chỉ chạy có vài phút ?
Một điều lý giải tại sao năng chạy bộ giúp ta… sống lâu =)
— Ánh sáng là bất tử . Cái này hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng cũng đều đúng ^^ . Tôi chỉ giải thích phần nghĩa đen . Đơn giản thôi, ở trên đã nói rằng khi chạy với vận tốc ánh sáng thì thời gian không trôi qua . Như vậy mọi ánh sáng vũ trụ mà bạn thấy đều đã có từ thời khởi thủy của vũ trụ ,nay chúng vẫn vậy, không hề “già” đi .
— Nếu bạn cứ đi liên tiếp về một hướng trong vũ trụ thì sớm muộn gì, bạn cũng sẽ quay trở lại điểm xuất phát . Giả sử Trái Đất là đứng yên trong vũ trụ, tôi bay lên vũ trụ từ Bắc Cực thì sau một thời gian đủ dài, tôi sẽ xuất hiện ở Nam Cực .
Điều này thực ra mới chỉ là lý thuyết, chưa có ai kiểm chứng được nó. Và có thể là sẽ không bao giờ kiểm chứng được , bởi vì muốn kết thúc một hành trình như vậy, bạn sẽ phải đi nhanh hơn ánh sáng, nếu không bạn sẽ không bao giờ kịp về đích trước khi vũ trụ bị hủy diệt . Mà các quy luật vật lý thì không cho bất cứ một cái gì đi nhanh hơn ánh sáng .
– E=mc2 . Công thức này quen thuộc đúng không ? Số 2 ở đây là bình phương chứ không phải nhân với 2 đâu.
E = Energy : năng lượng
m = Mass : khối lượng
c : vận tốc ánh sáng
Công thức này của Einstein, nó có nghĩa là năng lượng của một vật bằng khối lượng của vật đó nhân với bình phương vận tốc ánh sáng .
Một con số khổng lồ đúng không ? Nhưng các bác đừng nghĩ là mình khỏe mạnh đến vậy . Số năng lượng đó sẽ có, nếu như toàn bộ khối lượng vật chất chuyển hết sang dạng năng lượng . Điều này đồng nghĩa với việc nếu muốn tung một chưởng với bằng ấy năng lượng ra, các bác phải chịu mất hết khối lượng, hay nói cách khác : tan biến vào hư vô .
Công thức này đã được chứng minh là đúng . Bằng chứng rõ ràng là quả bom nguyên tử . Chỉ với vài gram Uranium, có thể tạo ra năng lượng hủy diệt cả một thành phố .
– Người ta thường nghĩ, không gian và thời gian là không liên quan gì đến nhau, thực ra là sai . Các nhà khoa học đã chứng minh rằng thời gian và không gian chỉ là một ,họ gọi cái thực thể ấy là : Không-thời gian .
Lấy một ví dụ đơn giản : tôi hẹn gặp bạn gái ở Ciao Cafe . Mặc dù cả hai đều biết rõ địa chỉ và đến, nhưng chúng tôi không gặp nhau . Tại sao ? Đơn giản vì tôi đến lúc 7h giờ sáng, còn bạn gái tôi đến lúc 3h chiều .
Từ ví dụ trên, chúng ta rút ra một điều mà thông thường chúng ta ít khi nghĩ tới : 2 người muốn gặp nhau thì không chỉ phải ở cùng chỗ, mà còn phải cùng lúc nữa . Thiếu một trong 2 điều kiện thì chắc chắn là không gặp được nhau (cẩn thận khi hẹn bạn trai/gái)
– -Các bạn nghĩ rằng cái gì là thành phần cơ bản nhất tạo nên vật chất ?
Các phân tử ? Nếu tôi nói vậy, các bạn sẽ bảo sai . Vì ai cũng biết rằng một phân tử được tạo thành từ nhiều nguyên tử .
Liệu nguyên tử đã là cuối cùng ? Chưa . Nguyên tử bao gồm hạt nhân và Electron bay xung quanh nó . Trong hạt nhân thì có Proton và Neutron .
Hết chưa ạ ? Chưa .
Proton và Neutron được tạo thành từ những hạt gọi là Quark (thoát ra khỏi tiếng Hy Lạp rồi ^_^) . Mà Quark thì có 6 loại lên lận : Quark u (up), Quark d (down) ,Quark s (strange) ,Quark c (Charmed), Quark b (bottom), Quark t (top) .
Vậy đó ,liệu các Quark có được tạo thành từ cái gì đó nhỏ hơn không ? Cái đó thì hiện nay chúng ta chưa biết ?
Như vậy thì cuối cùng cái gì là viên gạch cơ bản nhất ? Hay là cứ nhỏ mãi như vậy ? Có Trời mà biết được! Nhưng theo những nghiên cứu gần đây thì đã có bằng chứng đáng tin cậy rằng những viên gạch nhỏ nhất ấy không phải là hình dạng hạt như Proton hay Neutron, mà là hình dạng sợi dây!
Thời gian có thật sự co giãn?????
Theo thuyết tương đối hẹp của Einstein, một cái đồng hồ đang bay sẽ tích tắc chậm hơn một cái đồng hồ đứng yên. Nhưng mô hình dưới đây có thể cho kết quả khác. 
Ảnh minh họa: lcsd.gov.hk

Cho hai con tàu A và B cùng di chuyển trên cùng một tuyến đường. Trên mỗi tàu đặt một chiếc đồng hồ và một máy đo tần số dao động của con lắc đồng hồ. Điều kiện đặt ra là tần số dao động của hai con lắc đồng hồ là đồng bộ và máy đo phải đo được dao động của cả hai đồng hồ trên hai con tàu đang chuyển động và hiển thị những sự dao động đó bằng đồ thị. Khi hai con tàu di chuyển cùng tốc độ, kết quả hiển thị trên máy đo sẽ cho các đồ thị giống nhau. Khi cho tàu A di chuyển với tốc độ không đổi, còn tàu B thay đổi tăng giảm tốc độ nhiều lần thì kết quả đo sẽ có một số thay đổi trên đồ thị biểu diễn dao động của con lắc đồng hồ không cùng trên một tàu với máy đo.

Có những đoạn đồ thị chỉ tần số cao, có những đoạn chỉ tần số thấp. Sự thay đổi này là kết quả của hiệu ứng Doppler. Những đoạn chỉ tần số cao tương ứng với giai đoạn tăng tốc, còn đoạn chỉ tần số thấp tương ứng với giai đoạn giảm tốc của tàu B. Đồ thị của đồng hồ trên cùng tàu với máy đo không có gì thay đổi. So sánh đồ thị trên hai máy đo sẽ cho thấy có sự giống nhau hoàn toàn mặc dù có sự hiển thị chéo của hai đồ thị. Điều này có nghĩa là sự thay đổi tốc độ và sự di chuyển nhanh chậm không có ảnh hưởng tới thời gian.
Trong thực tế cái việc được gọi là đo thời gian dù phép đo và thiết bị đo chính xác tới đâu thì cũng chỉ là phép so sánh các quá trình vận động của vật chất đang diễn ra song song với nhau, trong đó có một quá trình được chọn làm mốc (ví dụ như sự vận động của cái đồng hồ). Nếu hai quá trình này không song song với nhau hay có biến động của quá trình được lấy làm mốc đo thời gian sẽ làm cho kết quả đo bị sai như mô hình trên đây khi lấy con tàu B làm mốc đo dao động của chiếc đồng hồ trên tàu A. Nói khác đi trong thực tế chưa có việc đo thời gian và thực sự con người cũng chưa có hiểu biết gì về thời gian. Mọi cái mà chúng ta gán cho thời gian chỉ mang tính nhận thức chủ quan, và khi chưa hiểu gì về thời gian thì làm sau có thể đo được thời gian và biết nó co giãn được?
Loài người chỉ thực hiện phân chia thời gian bằng một số quá trình vận động vật chất như chu kỳ quay của trái đất, dao động của con lắc, của nguyên tử... Nếu thực sự quan sát được sự thay đổi của các chu kỳ này khi chúng trong trạng thái di chuyển với tốc độ cao thì chưa có ai biết và khẳng định được chính xác là do thời gian giãn ra hay cái gì tạo nên sự thay đổi đó. Nói cách khác là chưa có cơ sở để nói rằng thời gian đã giãn ra cho các vật di chuyển với tốc độ cao. Chúng ta không thể nói rằng số lần tích tắc của cái đồng hồ trên ôtô khi ô tô chạy từ A đến B với tốc độ 120km/giờ ít hơn so với khi ôtô chạy với tốc độ 60km/giờ là do thời gian khi ôtô chạy nhanh đã giãn dài ra.
Điều cần quan tâm đặc biệt là khi hiệu ứng Doppler tham gia vào quá trình đo thì kết quả đo sẽ không còn đúng nữa. Như mô hình trên đây cho thấy để đo được đúng thời gian trên tàu A thì tàu B phải chuyển động cùng tốc độ với tàu A. Một yếu tố nữa cũng ảnh hưởng đến kết quả đo là độ trễ của các thiết bị. Độ trễ của thiết bị là khoảng thời gian từ khi đầu đo của thiết bị tiếp nhận tín hiệu đến khi kết thúc quá trình xử lý, ghi lại và hiển thị kết quả đo.
Nếu độ trễ của thiết bị bằng không thì thiết có khả năng xử lý tức thời, kết quả đo sẽ có độ chính xác cao. Nếu thiết bị đo đạc và ghi nhận có độ trễ khác không thì kết quả sẽ không còn độ chính xác. Độ trễ làm cho tổng thời gian tiếp nhận và xử lý tín hiệu kéo dài hơn thời gian đối tượng cần đo tác động lên thiết bị đo và tạo nên sai số cho phép đo. Độ trễ cũng tương tự như sự lưu hình của mắt trong các loại động vật. Tính lưu hình càng thấp (thời gian lưu hình càng ngắn) thì khả năng xử lý thông tin về sự chuyển động nhanh càng dễ và tạo cảm giác thời gian trôi không nhanh. Ngược lại, thời gian lưu hình càng kéo dài thì các thông tin chuyển động nhanh sẽ bị chồng lên nhau khiến cho việc xử lý không thực hiện được. 

Những nhà tuyên truyền cho Thuyết tương đối hẹp cũng đưa ra mô hình để chứng minh rằng người du hành vào vũ trụ sẽ trẻ lâu hơn người ở lại trái đất. Mô hình dưới đây lại chứng minh rằng người du hành vào vũ trụ nhanh già hơn người ở lại trái đất: 

Một con tàu vũ trụ có người lái được phóng lên từ trái đất theo một quỹ đạo hình elip. Mặt phẳng quỹ đạo của con tàu vuông góc với quỹ đạo của trái đất. Độ dài quỹ đạo của tàu vũ trụ được ấn định bằng một nửa độ dài quỹ đạo của trái đất. Tốc độ của tàu vũ trụ cũng được duy trì ở mức bằng một nửa tốc độ của trái đất di chuyển trên quỹ đạo (Trái đất di chuyển trên quỹ đạo của nó với vận tốc xấp xỉ 28km/giây, tốc độ của tàu vũ trụ được duy trì ở khoảng 14km/giây). Với mô hình và các thông số được thiết lập như vậy thì sau một năm rời khỏi trái đất, con tàu sẽ trở về trái đất tại đúng nơi nó đã được phóng lên (tại điểm mà con tàu được phóng lên từ quỹ đạo của trái đất).
Theo thuyết tương đối, thời gian sẽ chậm lại khi tốc độ di chuyển tăng lên và như vậy, do tốc độ của tàu vũ trụ bằng một nửa tốc độ của trái đất cho nên thời gian trên con tàu vũ trụ sẽ nhanh gấp hai lần thời gian trên mặt đất. Điều này có nghĩa là người anh sinh đôi du hành vào vũ trụ sẽ nhanh già hơn người em ở lại trên trái đất. Nếu tăng chiều dài quỹ đạo của con tàu bằng chiều dài của quỹ đạo trái đất và vẫn duy trì tốc độ như trên thì phải sau hai năm những người ở trái đất mới được đón các nhà du hành vũ trụ trở về và lúc đó các nhà du hành vũ trụ đã thêm được bốn tuổi so với hai tuổi của những người ở lại trái đất. 

Những mô hình khác nhau cho những kết quả không giống nhau về cùng một vấn đề có nguyên nhân từ việc thiết lập các dữ kiện cho mô hình. Để có một kết quả đúng thì các dữ kiện có ảnh hưởng đến kết quả phải được đưa vào mô hình và mô hình cũng phải được thiết lập sát với thực tế. Thiếu hoặc dữ kiện không đúng thì kết quả chỉ là gần đúng hoặc sai hoặc chỉ đúng trong một giới hạn xác định. Mô hình được thiết lập không giống hoặc sát với thực tế thì các dữ kiện đúng cũng vẫn có thể dẫn đến các kết quả sai.
Nếu chỉ cần dữ kiện những vật gì toả sáng được gọi là mặt trăng thì các vì sao, các ngọn đèn và cả mảnh gương phản chiếu ánh sáng cũng là mặt trăng. Nhưng ngọn đèn không thể là mặt trăng khi thêm vào đó những dữ kiện khác (và có rất nhiều dữ kiện để ngọn đèn không thể là trăng). Sở dĩ ngón tay che được ngôi nhà và thậm trí là che được cả mặt trời vì chúng ta chấp nhận một dữ kiện (một dữ kiện không thể chấp nhận được) đó là khoảng cách giữa ngón tay và mắt của chúng ta rất nhỏ so với khoảng cách từ mắt của ta tới ngôi nhà hay tới mặt trời. Nếu sử dụng dữ kiện là khoảng cách từ mắt từ ngón tay bằng khoảng cách từ mắt tới ngôi nhà thì còn đâu cái sự ngón tay lớn hơn ngôi nhà?.
Trong mô hình chứng minh người du hành vào vũ trụ trẻ lâu hơn người ở lại trái đất đã bỏ qua dữ kiện về sự di chuyển của trái đất trên quỹ đạo. Và nếu thực tế thời gian sẽ kéo dài khi di chuyển với tốc độ cao thì còn cần một khoảng thời gian rất dài nữa để kiểm chứng được điều này bởi để chế tạo được con tàu vũ trụ tự nó đạt được tốc độ của trái đất trên quỹ đạo riêng của nó là việc không dễ dàng về kỹ thuật.
Giấc mơ “đi ngược thời gian”
Đây không phải là chuyện giật gân, cũng không phải là viễn tưởng, bởi vì chúng được xây dựng trên nền tảng lý thuyết sáng sủa và những kiểm nghiệm khoa học mới nhất của GS Ronald Mallet, Đại học Connecticut, Mỹ. Ông cho rằng chúng ta có khả năng đi ngược thời gian!
Mallet không đi theo cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu máy thời gian khác, cho rằng vũ trụ có những cấu trúc xoắn ốc, những “lỗ sâu đục” và chúng ta hầu như không có khả năng xâm nhập, vì nó đòi hỏi một “năng lượng âm” rất lớn. Ông cũng không theo quan điểm của nhà logic học Kurt Goedel, người đầu tiên khởi xướng thuyết máy thời gian, cho rằng sự hiện hữu của một “vũ trụ quay” là điều tất yếu. Hoàn toàn theo cách ngược lại, Mallet đã dựa trên những nền tảng vật lý sáng sủa nhất: Thuyết không gian cong của Einstein và thuyết lượng tử ánh sáng.
Vùng trũng thời gian
Mỗi thiên thạch, khi chuyển động đều gây ra một trường hấp dẫn ảnh hưởng tới không gian và thời gian xung quanh nó, ảnh hưởng này tỷ lệ thuận theo khối lượng của thiên thạch. Trong những tr­ường hợp nhất định, các “gợn sóng” trong không gian gây ra bởi những chuyển động trên có thể làm thời gian bị uốn cong. Tương tự như một viên sỏi đặt trên chiếc gối mềm, không-thời gian (hệ toạ độ 4 chiều, trong đó thời gian là chiều thứ 4) cũng có những vùng trũng tương tự. Cũng theo những tính toán lý thuyết thì, “bằng cách nào đó”, thời gian có thể bị làm trũng đến mức nó không còn chạy thẳng nữa mà sẽ chạy theo vòng tròn.
Trước nay, các nhà khoa học đều nhất trí cho rằng trung tâm hấp dẫn chính là trung tâm của không-thời gian bị bẻ cong, và họ dồn mọi nỗ lực nghiên cứu theo hướng ấy. Mallett đi theo hướng khác. Ông nghiên cứu các thuộc tính của ánh sáng theo thuyết tương đối rộng và thuyết lượng tử. Theo đó, ánh sáng thực ra không có khối lượng, nhưng nó có thể bị bẻ cong khi đi qua một trường hấp dẫn cực lớn và khi đó không gian cũng bị bẻ cong.
Năm ngoái, trong một bài đăng trên tạp chí khoa học New Scientist, Mallett đã chỉ ra rằng, tia laser khi chuyển động trên đường tròn sẽ sản sinh ra một trường xoáy xung quanh nó. Mới đây, ông lại giả định rằng những trường xoáy ánh sáng loại này đang giãn nở dần trong không-thời gian. Nhưng, để xảy ra một trường hợp đó thì theo tính toán lý thuyết, cần có một laser thứ hai. Khi nó chuyển động ngược chiều với tia laser thứ nhất, cường độ của nó cũng được tăng lên tương ứng. Khi đó không gian và thời gian sẽ hoán vị vai trò cho nhau và thời gian sẽ “quay” ở phía trong của vòng laser!
Theo đó, về mặt lý thuyết, loài người có thể tìm ngược về quá khứ của mình, ít nhất cũng về đến thời điểm mà vòng tròn được khép kín.
Ánh sáng chậm dần…
Một vấn đề cơ bản nhưng rất khó giải quyết, đó là: Khi bắt thời gian chạy vào một vòng tròn, ta cần một năng lượng lớn khủng khiếp. Việc tạo ra nguồn năng lượng này nằm ngoài khả năng của chúng ta hiện nay. Mallet đề nghị giải pháp “hãm thời gian” để giảm đòi hỏi năng lượng.Theo định luật “nếu ánh sáng càng chậm dần thì mức độ nhiễu loạn trong không-thời gian càng lớn” và nhiễu loạn này sinh ra năng lượng hỗ trợ cho việc bẻ cong thời gian.
Mallet muốn dùng chiếc máy thời gian laser “hãm” ánh sáng làm cho nó chuyển động chậm đến mức có thể. Cuối cùng, ông đã làm được một điều kỳ diệu: Hãm ánh sáng từ tốc độ 300.000 km/s tới lúc nó dừng lại hoàn toàn! “Điều đó đã mở ra một vùng trời mới mà chúng ta chưa bao giờ dám mơ tưởng đến”, Mallet nói.
Tuy nhiên, việc “hãm” tốc độ ánh sáng trên chỉ có thể thực hiện ở môi trường nhiệt độ sát gần điểm không tuyệt đối (-273 độ C). Chính vì thế, nếu thử nghiệm chế tạo máy thời gian của Mallet thành công thì chúng ta vẫn phải đối đầu với một vấn đề hết sức nan giải: Làm thế nào để cơ thể con người có thể thích ứng được với nhiệt độ “băng hà” ấy để “du hành” trong thời gian?
(Hiện nay, Mallett mới chỉ tiến hành những thực nghiệm nhỏ. Bước thứ nhất là đo những tác động của vòng quay laser vào một nguyên tử đơn).
Vì vậy việt tạo ra "cỗ máy thời gian" là việc sớm muộn trong tương lai .

Bài viết liên quan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét